Scholar Hub/Chủ đề/#gây mê tĩnh mạch/
Gây mê tĩnh mạch là phương pháp sử dụng thuốc tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch để dẫn đến mất cảm giác tạm thời, quan trọng trong phẫu thuật và y tế. Có nhiều loại thuốc như Propofol, Thiopental, Etomidate, và Ketamine với các đặc điểm và tác dụng khác nhau. Ưu điểm gồm khởi phát nhanh, dễ điều chỉnh liều, hồi phục nhanh. Tuy nhiên, có rủi ro như tụt huyết áp, dị ứng, ảnh hưởng đến hô hấp. Quy trình bao gồm đánh giá tiền mê, thiết lập đường truyền, tiêm thuốc và theo dõi. Đây là phần quan trọng giúp đảm bảo phẫu thuật an toàn và hiệu quả.
Giới thiệu về Gây Mê Tĩnh Mạch
Gây mê tĩnh mạch là một phương pháp gây mê sử dụng thuốc được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch để tạo ra trạng thái mất cảm giác và nhận thức tạm thời cho bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật hoặc các thủ thuật y tế khác. Đây là một phần quan trọng của gây mê tổng quát, giúp duy trì sự an toàn và thoải mái cho bệnh nhân.
Các Loại Thuốc Gây Mê Tĩnh Mạch
Có nhiều loại thuốc được sử dụng trong gây mê tĩnh mạch, bao gồm:
- Propofol: Thuốc gây mê phổ biến nhất, có tác dụng nhanh và dễ kiểm soát. Thường được sử dụng trong các phẫu thuật ngắn.
- Thiopental: Một barbiturate, trước đây được sử dụng phổ biến nhưng hiện tại ít được sử dụng hơn do tác dụng kéo dài và ảnh hưởng xấu đến hô hấp.
- Etomidate: Thích hợp cho những bệnh nhân có nguy cơ hạ huyết áp, nhưng có thể gây buồn nôn sau phẫu thuật và tác động đến tuyến thượng thận.
- Ketamine: Có tác dụng giảm đau mạnh và giữ cho bệnh nhân thở tự nhiên, thường được sử dụng cho bệnh nhân suy hô hấp hoặc cấp cứu.
Ưu Điểm của Gây Mê Tĩnh Mạch
Phương pháp gây mê tĩnh mạch có một số ưu điểm nổi bật:
- Khởi phát nhanh: Thuốc tiêm tĩnh mạch thường có tác dụng rất nhanh chóng.
- Dễ điều chỉnh liều lượng: Dễ dàng kiểm soát nồng độ thuốc trong máu thông qua điều chỉnh tốc độ truyền thuốc.
- Hồi phục nhanh: Bệnh nhân thường tỉnh lại nhanh chóng sau khi ngừng thuốc.
Nhược Điểm và Rủi Ro Của Gây Mê Tĩnh Mạch
Bên cạnh những lợi ích, gây mê tĩnh mạch cũng có một số nhược điểm và rủi ro, bao gồm:
- Nguy cơ tụt huyết áp: Một số thuốc gây mê có thể làm hạ huyết áp của bệnh nhân một cách nhanh chóng.
- Phản ứng dị ứng: Có thể xảy ra với bất kỳ loại thuốc nào, đòi hỏi sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ.
- Ảnh hưởng đến hô hấp: Đặc biệt với các thuốc barbiturate, có thể gây suy hô hấp nghiêm trọng.
Quy Trình Gây Mê Tĩnh Mạch
Quy trình gây mê tĩnh mạch thường bao gồm các bước sau:
- Đánh giá tiền mê: Bác sĩ sẽ kiểm tra sức khỏe và lịch sử y tế của bệnh nhân để lựa chọn chế độ gây mê phù hợp.
- Thiết lập đường truyền: Đường truyền tĩnh mạch được thiết lập để tiêm thuốc.
- Tiêm thuốc: Tiêm thuốc theo liều đã định để đạt được mức độ gây mê mong muốn.
- Theo dõi: Bệnh nhân được theo dõi các dấu hiệu sinh tồn và mức độ mê trong suốt thời gian phẫu thuật.
Kết Luận
Gây mê tĩnh mạch là một phần không thể thiếu của các quy trình y tế hiện đại, giúp đảm bảo phẫu thuật an toàn và hiệu quả. Hiểu rõ về các loại thuốc, ưu điểm, nhược điểm và quy trình liên quan là cần thiết cho cả nhân viên y tế và bệnh nhân để đảm bảo trải nghiệm y tế tốt nhất.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÔ CẢM GÂY MÊ PROPOFOL KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO NỘI SOI TÁN SỎI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG TẠI TRUNG TÂM KỸ THUẬT CAO VÀ TIÊU HÓA HÀ NỘIPhương pháp gây mê tĩnh mạch propofol kiểm soát nồng độ đích với thông khí hỗ trợ có nhiều ưu điểm so với không kiểm soát nồng độ đích, có thể áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả khá cao. Nghiên cứu tiền cứu, mô tả lâm sàng có đối chứng, tại Trung tâm Kỹ thuật cao và Tiêu hóa Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong thời gian từ tháng 02 năm 2021 đến tháng 10 năm 2021, với cỡ mẫu 120 BN ASA I/II được lựa chọn cho can thiệp hệ tiết niệu có hoặc không về trong ngày, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I (60BN) gây mê tĩnh mạch với propofol kiểm soát nồng độ đích (KSNĐĐ). Nhóm II (60BN) gây mê propofol bằng bơm điện thông thường không kiểm soát nồng độ đích. Theo nghiên cứu của chúng tôi: thời gian mất tri giác (giây) của nhóm I là 46,02±7,71 so với nhóm II là 39,82±6,73 (p<0,001); thời gian đủ ĐK đặt NTQ (phút) của nhóm I là 4,44±0,72 so với nhóm II là3,95±0,82 (p<0,001). Thời gian can thiệp tán sỏi hệ tiết niệu (không tính thời gian chuẩn bị trải toan kê tư thế): 25,8±17,4 phút so với 24,8±16,1 phút theo thứ tự TCI/BTĐ. Kết quả này cũng phù hợp với thời gian trung bình tán sỏi niệu quản nội soi trong nghiên cứu của Taylo [9] là 21 phút.
#Gây mê tĩnh mạch #kiểm soát nồng độ đích #gây mê thông khí hỗ trợ #can thiệp tiết niệu
Không có phản ứng tâm lý nào ở bệnh nhân tâm thần phân liệt ngay lập tức sau khi gây mê tĩnh mạch bằng propofol, fentanyl và ketamine Dịch bởi AI Journal of Anesthesia - Tập 13 - Trang 17-22 - 1999
Mục đích. Chúng tôi đã cố gắng xác định tần suất các sự kiện tâm lý bất lợi sau khi gây mê tĩnh mạch hoàn toàn bằng propofol-fentanyl-ketamine (PFK) ở bệnh nhân tâm thần phân liệt phẫu thuật. Phương pháp. PFK đã được sử dụng cho 25 bệnh nhân tâm thần phân liệt thực hiện các thủ thuật phẫu thuật khác nhau từ năm 1995 đến 1997. Các sự kiện bất lợi xảy ra trong và sau khi gây mê được ghi nhận. Theo dõi tâm thần cũng được thực hiện trong ít nhất 3 tuần sau phẫu thuật. Kết quả. Một bệnh nhân đã tử vong sau phẫu thuật do tắc nghẽn đường thở từ bệnh lý tuyến giáp ác tính nặng đồng thời, nhưng ở các bệnh nhân còn lại thì không có tình trạng hô hấp hay tim mạch nào trong hoặc sau khi gây mê trở nên không ổn định. Không có bệnh nhân nào phát triển các phản ứng tâm lý bất lợi ngay sau khi gây mê. Hai bệnh nhân thực hiện các thủ thuật phẫu thuật lớn đã xuất hiện tình trạng mê sảng trong những ngày đầu sau phẫu thuật bất chấp việc tham gia vào các loại thuốc chống loạn thần thông thường sau phẫu thuật. Kết luận. Chúng tôi đề xuất rằng PFK duy trì các trạng thái hô hấp và tim mạch ổn định, và không gây ra các phản ứng tâm lý bùng phát ở các bệnh nhân phẫu thuật tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, các sự kiện tâm lý bất lợi có thể xảy ra sau phẫu thuật, có thể do căng thẳng tâm lý kéo dài. Do đó, chúng tôi khuyến nghị quản lý perioperative thích hợp và các nghiên cứu tâm lý tiếp theo cho những bệnh nhân như vậy.
#gây mê tĩnh mạch #tâm thần phân liệt #phản ứng tâm lý #sự kiện bất lợi tâm lý
Diễn biến lâm sàng của người bệnh sau chọc hút noãn dưới gây mê tĩnh mạch tại Bệnh viện Đa khoa Tâm AnhMục tiêu: Mô tả diễn biến lâm sàng của người bệnh sau chọc hút noãn dưới gây mê tĩnh mạch tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng thang điểm đau VAS và hệ thống PADSS xem xét 5 tiêu chí: dấu hiệu sinh tồn (mạch, huyết áp), vận động, buồn nôn/nôn, đau, chảy máu để đánh giá người bệnh xuất viện được thực hiện ở 200 của người bệnh sau chọc hút noãn dưới gây mê tĩnh mạch tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh từ tháng 6/2022 tới tháng 5/2023.
Kết quả: Các chỉ số tri giác, huyết áp, vận động đều ổn định ở thời điểm T8; 93 trường hợp có thể ra viện khi điểm tại 2 thời điểm T7,T8 = 9 và điểm vận động = 2; 107 trường hợp NB ra viện sau 2 giờ.
Kết luận: Thang điểm PADSS là thang điểm an toàn để đánh giá người bệnh ra viện và sau ra viện người bệnh hầu như không xuất hiện biến chứng phải nhập viện.
#Diễn biến lâm sàng #người bệnh chọc hút noãn #gây mê tĩnh mạch
Sản xuất nitric oxide tại mũi và phế quản và ảnh hưởng của nó đến việc cung cấp oxy ở ngựa trong quá trình gây mê tĩnh mạch hoàn toàn Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 18 - Trang 1-12 - 2022
Nghiên cứu hiện tại nhằm mục đích điều tra tác động của việc nội khí quản đối với nồng độ NO nội sinh ở mũi và khí quản, trao đổi khí và oxy hóa ở ngựa trải qua quá trình gây mê tổng quát. Ở nhiều loài, một phần lớn sản xuất nitric oxide (NO) sinh lý xảy ra ở vùng mũi họng. NO hít vào hoạt động như một chất giãn mạch phổi và điều chỉnh quá trình tưới máu phổi, trong khi nội khí quản bỏ qua vùng mũi họng. Sáu con ngựa được phân bổ ngẫu nhiên vào hai nhóm điều trị là “đã nội khí quản” (INT) hoặc “chưa nội khí quản” (nINT). Ngựa được tiền mê bằng dexmedetomidine (5 μg/kg IV). Gây mê được thực hiện bằng 2.5 mg/kg ketamine và 0.05 mg/kg diazepam IV, và duy trì bằng cách truyền ba thuốc (100 mg/kg/h guaifenesin, 4 mg/kg/h ketamine, 7 μg/kg/h dexmedetomidine). Những con ngựa đã thở tự nhiên không khí xung quanh. Nhịp tim, lưu lượng tim, huyết áp động mạch, huyết áp động mạch phổi và tỷ lệ hô hấp được ghi lại trong suốt 100 phút gây mê. Mẫu máu động mạch, tĩnh mạch và máu tĩnh mạch hỗn hợp được lấy mỗi 10 phút và phân tích để xác định áp suất riêng phần của oxy (PO2) và carbon dioxide (PCO2), độ bão hòa oxy và hàm lượng hemoglobin. Các chỉ số oxy hóa chuẩn được tính toán. Nồng độ NO nội sinh tại mũi và khí quản được xác định bằng phương pháp hóa phát quang. Các biến số tim mạch, tỷ lệ hô hấp, PO2, PCO2, độ bão hòa oxy, hàm lượng hemoglobin, CaO2, O2ER, P(a-ET)CO2 và Qs/Qt không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm điều trị. P(A-a)O2 cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm INT (6.1 ± 0.3 kPa) so với nhóm nINT (4.9 ± 0.1 kPa) (p = 0.045). Nồng độ NO nội sinh tại mũi (8.0 ± 6.2 ppb) và khí quản (13.0 ± 6.3 ppb) có sự khác biệt đáng kể ở nhóm INT (p = 0.036), nhưng không ở nhóm nINT (mũi: 16.9 ± 9.0 ppb; khí quản: 18.5 ± 9.5 ppb) (p = 0.215). Việc nội khí quản làm giảm nồng độ NO nội sinh tại mũi và khí quản. Tác động lên quá trình trao đổi khí phổi và oxy hóa là rất nhỏ ở ngựa thở không khí xung quanh.
#nitric oxide #nội khí quản #ngựa #gây mê tổng quát #trao đổi khí #oxy hóa
Vòng tuần hoàn trong gây mê Dịch bởi AI Canadian Journal of Anaesthesia - Tập 11 - Trang 173-181 - 1964
Tính toàn vẹn của hệ tuần hoàn phụ thuộc vào tổng hợp của các yếu tố như lưu lượng tim, đề kháng mạch máu ngoại biên và thể tích máu. Các tác nhân gây ra tình trạng gây mê toàn thân ảnh hưởng đến tuần hoàn bằng cách giảm lưu lượng tim và đề kháng ngoại biên, hiệu ứng này tỷ lệ thuận với nồng độ của các tác nhân trong máu. Những yếu tố khác có thể làm thay đổi tuần hoàn trong quá trình gây mê bao gồm tình trạng thông khí, mức độ thiếu oxy, sự cho phép sử dụng các thuốc giãn cơ và sự xuất hiện của toan chuyển hóa. Cùng với các biện pháp lâm sàng thông thường để đánh giá hệ tuần hoàn, giá trị áp lực tĩnh mạch cũng cung cấp dữ liệu hữu ích. Những giá trị này cho phép phân biệt giữa một vấn đề trong đó chức năng cơ tim cần được cải thiện và một vấn đề trong đó thể tích máu có thể được tăng cường một cách an toàn để điều trị tình trạng tuần hoàn không đủ.
#gây mê toàn thân #tuần hoàn #lưu lượng tim #đề kháng mạch máu #thể tích máu #áp lực tĩnh mạch
Gây mê cho phẫu thuật Miles nội soi trên bệnh nhân cao tuổi rung nhĩ cao huyết áp giãn tĩnh mạch chi dướiTạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - Số 3 - Trang - 2024
Gây mê cho bệnh nhân tim mạch phẫu thuật ngoài tim ở bệnh nhân cao tuổi nhiều bệnh lý nền là một vấn đề thách thức với bác sĩ gây mê vì bệnh nhân có nhiều thay đổi về sinh lý, dược động học của thuốc cũng như tỉ lệ tai biến tim mạch cao. Chúng tôi thông báo ca lâm sàng bệnh nhân nam, 71 tuổi, ung thư trực tràng 1/3 dưới, cao huyết áp, rung nhĩ, giãn tĩnh mạch chi dưới. Bệnh nhân được gây mê nội khí quản phẫu thuật Miles nội soi, sau phẫu thuật về khoa hồi sức ngoại điều trị và ra viện sau 5 ngày phẫu thuật.
#Gây mê #rung nhĩ #cao huyết áp #giãn tĩnh mạch chi dưới #phẫu thuật Miles nội soi
ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI HUYẾT ĐỘNG, TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY MÊ TĨNH MẠCH CÓ KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH CHO NỘI SOI TÁN SỎI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG TẠI TRUNG TÂM KỸ THUẬT CAO VÀ TIÊU HÓA HÀ NỘIPhương pháp gây mê tĩnh mạch propofol kiểm soát nồng độ đích với thông khí hỗ trợ có nhiều ưu điểm so với không kiểm soát nồng độ đích, có thể áp dụng cho các can thiệp tiết niệu trung bình và ngắn, về trong ngày với hiệu quả khá cao. Nghiên cứu tiền cứu, mô tả lâm sàng có đối chứng, tại Trung tâm Kỹ thuật cao và Tiêu hóa Hà Nội, Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn trong thời gian từ tháng 02 năm 2021 đến tháng 10 năm 2021, với cỡ mẫu 120 BN ASA I/II được lựa chọn cho can thiệp hệ tiết niệu có hoặc không về trong ngày, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm I (60BN) gây mê tĩnh mạch với propofol kiểm soát nồng độ đích (KSNĐĐ). Nhóm II (60BN) gây mê propofol bằng bơm điện thông thường không kiểm soát nồng độ đích. Theo nghiên cứu của chúng tôi: Mức giảm tần số tim trung bình của 2 nhóm là 24,2±9,6% và 26,4±9,8% theo thứ tự TCI/BTĐ. Số ca hạ HA và số ca phải sử dụng ephedrin nâng HA nhóm BTĐ đều nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm TCI: 30 ca (50%) so với 18 ca (30%) và 23 ca (38,3%) so với 12 ca (20%). Điểm an thần khi về phòng hồi tỉnh nhóm kiểm soát nồng độ đích cao hơn nhóm không kiểm soát nồng độ đích: 4,5 ± 0,7 điểm so với 4,2 ± 0,6 điểm (p<0,05). Không có sự khác biệt về các tác dụng không mong muốn và các biến chứng ở hậu phẫu giữa 2 nhóm nghiên cứu.
#Gây mê tĩnh mạch #kiểm soát nồng độ đích #gây mê thông khí hỗ trợ #can thiệp tiết niệu
Tác động của việc tiêm tĩnh mạch magnesium sulfate trong gây mê bằng propofol cho quy trình ERCP ở bệnh nhân cao tuổi: một nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, kiểm soát giả dược Dịch bởi AI BMC Geriatrics - Tập 23 - Trang 1-9 - 2023
Gây mê dựa trên propofol được sử dụng rộng rãi ở bệnh nhân cao tuổi trong quy trình chụp đường mật tụy ngược dòng (ERCP), nhưng tình trạng suy hô hấp và các sự kiện bất lợi về tim mạch thường xảy ra. Magnesium được tiêm tĩnh mạch có thể giảm cơn đau và giảm nhu cầu về propofol trong quá trình phẫu thuật. Chúng tôi giả thuyết rằng magnesium tiêm tĩnh mạch như một phương pháp hỗ trợ cho propofol sẽ có lợi cho những bệnh nhân cao tuổi trải qua các thủ thuật ERCP. Tám mươi bệnh nhân từ 65 đến 79 tuổi được đăng ký cho quy trình ERCP. Tất cả bệnh nhân được tiêm tĩnh mạch 0.1 µg/kg sufentanil như thuốc tiền mê. Các bệnh nhân được phân ngẫu nhiên để nhận một trong hai loại: magnesium sulfate tĩnh mạch 40 mg/kg (nhóm M, n = 40) hoặc cùng một thể tích dung dịch muối sinh lý (nhóm N, n = 40) trong vòng 15 phút trước khi bắt đầu gây mê. Gây mê trong phẫu thuật được thực hiện bằng propofol. Nhu cầu propofol tổng cộng trong suốt quy trình ERCP là kết quả chính. Tổng mức tiêu thụ propofol đã giảm 21.4% ở nhóm M so với nhóm N (151.2 ± 53.3 mg so với 192.3 ± 72.1 mg, P = 0.001). Tỷ lệ các cơn suy hô hấp và cử động không tự nguyện thấp hơn ở nhóm M so với nhóm N (0/40 so với 6/40, P = 0.011; 4/40 so với 11/40, P = 0.045; tương ứng). Trong nhóm M, bệnh nhân có cảm giác đau ít hơn so với nhóm N sau 30 phút sau thủ thuật (1 [0–1] so với 2 [1–2], P < 0.001). Một cách tương ứng, sự hài lòng của bệnh nhân cao hơn rõ rệt ở nhóm M (P = 0.005). Có xu hướng giảm nhịp tim và huyết áp động mạch trung bình trong quá trình phẫu thuật ở nhóm M. Một liều bolus duy nhất 40 mg/kg magnesium tiêm tĩnh mạch có thể làm giảm đáng kể mức tiêu thụ propofol trong quá trình ERCP, với tỷ lệ thành công gây mê cao hơn và các sự kiện bất lợi thấp hơn. ID UMIN000044737. Đã đăng ký 02/07/2021.
#gây mê #propofol #magnesium #ERCP #bệnh nhân cao tuổi
CHẤT LƯỢNG HỒI TỈNH SAU GÂY MÊ TĨNH MẠCH BẰNG PROPOFOL CHO THỦ THUẬT CHỌC HÚT NOÃNMục tiêu: Đánh giá chất lượng hồi tỉnh sau gây mê tĩnh mạch bằng propofol cho thủ thuật chọc hút noãn để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng, mô tả cắt ngang trên 50 người bệnh (NB) có chỉ định chọc hút noãn dưới gây mê toàn thân đường tĩnh mạch bằng propofol. Ghi lại diễn biến huyết động và hô hấp trong và sau gây mê, các mốc thời gian thoát mê, các biến chứng và tác dụng không mong muốn ở giai đoạn hồi tỉnh, đánh giá chất lượng hồi tỉnh ở NB bằng thang điểm QoR-40 (40-item quality of recovery questionnaire) và đánh giá các tiêu chí xuất viện tại thời điểm 4 giờ sau thực hiện thủ thuật. Kết quả: Thời gian tỉnh trở lại, thời gian tỉnh hoàn toàn lần lượt là 4,53 và 12,26 phút; không gặp các biến chứng và tác dụng không mong muốn trong quá trình gây mê và ở giai đoạn hồi tỉnh. Điểm QoR-40 và điểm đánh giá tiêu chuẩn ra viện trung bình của nhóm NB nghiên cứu lần lượt là 184,86/200 điểm và 14/14 điểm. Kết luận: Gây mê tĩnh mạch bằng propofol cho thủ thuật chọc hút noãn để thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm cho chất lượng hồi tỉnh tốt, không gặp các biến chứng và tác dụng không mong muốn do gây mê sau thực hiện thủ thuật. 100% NB đủ tiêu chuẩn xuất viện tại thời điểm 4 giờ sau thực hiện thủ thuật.
#Chất lượng hồi tỉnh #Gây mê tĩnh mạch #Propofol #Chọc hút noãn
Tác động chống nôn của Propofol Dịch bởi AI Der Anaesthesist - Tập 47 - Trang 918-924 - 1998
Tác động chống nôn trực tiếp của Propofol đã được biết đến. Sự kết hợp giữa gây mê khởi đầu và duy trì bằng Propofol trong gây mê tĩnh mạch hoàn toàn (TIVA) cho thấy có tỉ lệ bị buồn nôn và nôn sau phẫu thuật (PONV) thấp hơn so với các thuốc hoặc kỹ thuật gây mê khác. Cơ chế tác động liên quan vẫn chưa được làm rõ hoàn toàn. Bài viết này trình bày cách mà lợi thế của tác dụng chống nôn của Propofol có thể được tận dụng tốt nhất. Tác động tiềm năng của Propofol đối với võ não và sự tương tác của nó với hệ thống dopaminergic và serotoninergic sẽ được thảo luận dựa trên các kết quả từ nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu cơ bản. Cuối cùng, bài viết sẽ bàn đến những ưu điểm và nhược điểm của Propofol liên quan đến sự giảm tỉ lệ PONV trong thực hành lâm sàng.
#Propofol #tác động chống nôn #gây mê #PONV #gây mê tĩnh mạch hoàn toàn (TIVA)